TÂY THIÊN DI TÍCH LỊCH SỬ - DANH LAM THẮNG CẢNH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT

TÂY THIÊN  DI TÍCH LỊCH SỬ - DANH LAM THẮNG CẢNH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT

TÂY THIÊN DI TÍCH LỊCH SỬ - DANH LAM THẮNG CẢNH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT

08:36 - 20/01/2022

 

Khu di tích - danh thắng Tây Thiên thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc là một quần thể văn hóa du lịch tổng hợp, đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt năm 2015.

 

LỄ DÂNG HƯƠNG CỦA ĐOÀN ĐẠI BIỂU HỌC SINH, SINH VIÊN DTTS TIÊU BIỂU XUẤT SẮC NĂM HỌC 2023-2024
LỄ KẾT NẠP ĐẢNG VIÊN MỚI TẠI CHI BỘ BẢO TÀNG TỈNH VĨNH PHÚC
NGÀY 10/10/1954-MỐC SON RỰC RỠ TRONG TIẾN TRÌNH LỊCH SỬ CỦA DÂN TỘC
LỄ DÂNG HƯƠNG CÁC BẬC TIÊN THÁNH, TIÊN HIỀN, DANH NHÂN KHOA BẢNG VÀ TRƯNG BÀY CHUYÊN ĐỀ "THI ĐÌNH THỜI LÊ - ĐỈNH CAO KHOA CỬ VIỆT NAM"
LỄ DÂNG HƯƠNG CỦA PHÒNG GIÁO DỤC THÀNH PHỐ VĨNH YÊN

TÂY THIÊN

DI TÍCH LỊCH SỬ - DANH LAM THẮNG CẢNH QUỐC GIA ĐẶC BIỆT

Khu di tích - danh thắng Tây Thiên thuộc xã Đại Đình, huyện Tam Đảo, tỉnh Vĩnh Phúc là một quần thể văn hóa du lịch tổng hợp, đã được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng là di tích quốc gia đặc biệt năm 2015.

 Với diện tích khoảng 148 ha, quần thể di tích - danh thắng Tây Thiên nằm trong vùng đa dạng sinh học của rừng quốc gia Tam Đảo với gần 500 loài thực vật và 300 loài động vật, trong đó có nhiều loài quý hiếm. Đây cũng được coi là một trong những nơi phát tích của Phật giáo Việt Nam và là nơi thờ tự chính Quốc Mẫu Tây Thiên - một trong hai vị Quốc Mẫu được sắc phong từ thời Hùng Vương dựng nước. Những ngôi đền - chùa cổ kính cùng với thiên nhiên kỳ thú đã tạo nên một quần thể di tích - danh thắng Tây Thiên không chỉ có giá trị văn hóa, tâm linh sâu sắc mà còn là chốn bồng lai với phong cảnh sơn thủy hữu tình. Truyền thuyết kể rằng ở đây có đền thờ nữ chúa Tam Đảo Lăng Thị Tiêu - người đã có công giúp nhà nước Văn Lang trong buổi đầu dựng nước và giữ nước, sau đó bà kết duyên với Vua Hùng thứ sáu (Hùng Huy Vương). Vì vậy các triều đại phong kiến sau này phong bà là Tây Thiên Quốc Mẫu “Thượng đẳng phúc thần” hiệu là “Tam Đảo sơn trụ Quốc Mẫu”.

Khu di tích - danh thắng Tây Thiên còn là một trong những trung tâm Phật giáo lớn và ra đời sớm nhất ở Việt Nam. Trong phạm vi chiều dài 11 km, chiều ngang 1 km của khu di tích tập trung 08 ngôi đền, chùa cổ nằm ẩn mình dưới cánh rừng già dọc theo những con suối của Tây Thiên từ trên núi cao đổ xuống đồng bằng. Tên gọi Tây Thiên, tức “bầu trời Tây” mang ý nghĩa là “nơi các nhà sư Tây Thiên (Ấn Độ) tu hành”, được đặt để ghi nhớ giáo đoàn đầu tiên từ Ấn Độ vào Việt Nam truyền đạo. Vào thế kỷ III trước Công nguyên, phái bộ thứ tám của vua A Dục đã tới nơi đây hoằng dương Phật pháp. Bị thu hút bởi cảnh sắc núi non liên hoàn, hùng vĩ và u nhã, có suối chảy nước trong, thác ghềnh, non cao, rừng thẳm, giáo đoàn đã dừng chân tu hành, xây dựng thành Nê Lê và chùa Địa Ngục. Tới thời Trần, đây là trung tâm Phật giáo thâm uy giống như Yên Tử (Đông Triều - Quảng Ninh). Các địa danh khác như suối Giải Oan, suối Trường Sinh, chùa Đồng Cổ, rừng thông già đại thụ là nơi nhiều đời cao tăng tu tập, hành trì và viên tịch. Các nhà khảo cổ học cũng đã tìm được 3 bia mộ đá và di cốt của Giác Linh Ngã Thiền Sư, Võng Sơn Thiền Sư, Cúc Khê Thiền Sư từng tu hành tại nơi đây. Ngoài ra, còn nhiều nền chùa cổ và các di chỉ hiếm hoi dưới nền đất rừng Tây Thiên được ghi lại trong sách Kiến Văn Tiểu Lục của Lê Quý Đôn. Một số công trình kiến trúc tiêu biểu trong quần thể di tích - danh thắng Tây Thiên phải kể đến là:

  1. Đền Thõng:Đền Thõng là kiến trúc khởi đầu cho cả hệ thống di tích Tây Thiên, nằm ngay dưới chân núi, trên một thế đất rộng, thoáng, được dựng theo phong cách cổ truyền. Đền có niên đại khởi dựng từ lâu, trùng tu tôn tạo vào năm 1998, hướng ra không gian rộng lớn với cây đa chín cội sừng sững trước cửa đền như một nhân chứng lịch sử trường tồn với thời gian. Khi tới đền Thõng, ta bắt gặp ngay hệ thống bậu đá chạy dài suốt mặt trước, với ba lối lên, phân cách bởi bốn rồng lớn. Tiếp theo là nghi môn tứ trụ bằng đá mới được dựng lại theo kiểu thức truyền thống. Sau nghi môn trụ là khoảng sân đền rộng, lát đá. Đền có kết cấu mặt bằng hình chữ Đinh, gồm tiền bái với ba gian hai chái lớn; hậu cung có ba gian thờ dọc, là nơi đặt ban thờ của Thánh Mẫu. 
  2. Đền Cậu - đền Cô:Từ đền Thõng, qua con đường đá xếp gập ghềnh men theo bờ suối khoảng hơn 1km là tới đền Cậu. Đền Cậu khởi nguồn là khe Trường Sinh, tương truyền đây là nơi “Cậu” ngự lại chiêu mộ và nuôi quân để đi theo phò Quốc Mẫu. Xưa kia, đền Cậu vốn là một ngôi miếu nhỏ, năm 1993 được tu sửa với không gian lớn hơn làm nơi thờ tự khang trang. Trung tâm của chính điện được bài trí tượng của ba cậu bé cửa rừng đặt trong khám.

Đền Cô nằm cách đền Cậu khoảng 2km, gần thác Bạc, bên dòng suối Giải oan (phần trên suối Trường Sinh) - nơi chúng sinh rũ bỏ bụi trần mà nhẹ tâm tiếp bước lên miền thánh thiện. Đền có niên đại lâu đời, thờ Cô Bé, tương truyền Cô là con nhà Trời xưa kia đã cùng Quốc Mẫu giúp dân, giúp nước. Cảnh sắc nơi đây thoáng đãng và yên bình với thảm thực vật phong phú, khí hậu quanh năm trong lành, mát mẻ. Dòng suối Giải oan cùng giếng nước cổ sát chân đền tăng thêm vẻ tịch mịch và hài hòa cho không gian nơi đây. Truyền rằng, ai mà lấy nước từ dòng suối Giải oan dâng lên cùng lễ vật, rồi uống sẽ thấy trong lòng thư thái, thanh thản và tịnh tâm đến lạ lùng.

  1. Khu vực đền Thượng:Với những tầng bậc đan xen nhau của mạch núi nơi đây đã tạo nên nền của các điện thờ khác nhau, trong đó đền Thượng là khu vực tâm linh chung của cả tín ngưỡng dân gian và tôn giáo mà trung tâm là điện thờ Quốc Mẫu Tây Thiên.   

Đền Thượng nằm ở vị trí chính tâm, lưng tựa vào núi Thạch Bàn, hai bên là hai tay núi chạy xuống, phía trước rộng thoáng. Nơi đây, mây vờn núi, cây cối tốt tươi, chim muông tụ hội, khe suối reo vui…tạo thành một trong những miền Thánh địa của dãy núi Tam Đảo.

Đền Thượng có niên đại từ đời Vua Hùng thứ 7 và được trùng tu, tôn tạo vào năm 2009. Đền quay mặt về hướng Tây - Nam, nghi môn được kết cấu theo kiểu tứ trụ, có tường nối giữa trụ lớn và trụ bên, chỉ để một cửa giữa cho khách hành hương ra vào. Trên các tường này đắp hình Thanh Long (rồng xanh), Bạch Hổ (hổ trắng) và cây cỏ tượng trưng cho bốn mùa. Sân đền lát đá ở giữa trục thần đạo, tạc ba chữ lớn Phúc, Lộc, Thọ (nối dọc) dẫn vào bậc thềm lên điện.

Đền Thượng có kết cấu mặt bằng kiểu chữ Đinh, gồm ba gian, hai chái lớn. Nhìn mặt trước, kiến trúc khá cân đối với hai tầng “chồng diêm” tám góc mái cong duyên dáng. Ở phần “chồng diêm” gian giữa treo một bức hoành phi lớn ghi bằng chữ quốc ngữ “Đền thờ Quốc Mẫu Tây Thiên”. Chính điện đặt tượng Quốc Mẫu ngồi ở trên bệ trung tâm, mang dáng vẻ uy nghi, sang trọng với hai chân buông thẳng, hai tay tì trên gối, tay phải cầm quạt gấp. Ngoài ra, tại khu vực này còn có các công trình mới xây dựng như: Miếu Sơn thần, đền Cô Chín, đền Địa Mẫu, đền Tam tòa Thánh Mẫu, nhà Tả vu, Hữu vu…

  1. Chùa Tây Thiên:Chùa Tây Thiên cổ xưa đã bị xuống cấp, dấu tích còn lại là ngôi tam quan chùa và bức hoành phi “Tây Thiên thiền tự”. Tam quan ở đây kết cấu theo dạng tam sơn, với sự kết hợp cả yếu tố Phật và Nho, trông tựa dáng tam quan chùa Kim Liên (Nghi Tàm - Hà Nội) hiện nay, song tam quan ở đây nhỏ và đơn giản hơn, chủ yếu theo hình thức bào trơn đóng bén, mang phong cách nghệ thuật vào khoảng thế kỷ XIX.

Chùa Tây Thiên mới được xây dựng tại vị trí cách nền cũ về bên trái khoảng trên dưới 20m. Toà chùa chính có hình thức truyền thống, cách bài trí hệ thống tượng tương đồng với các ngôi chùa vùng đồng bằng. Nhà Tổ dựng kiểu nhà sàn, cấu kiện và họa tiết trang trí kết hợp giữa truyền thống và hiện đại. Sau chùa là vườn tháp với ba tháp còn bia ghi: Cương Sơn Thiền sư, Cúc Khê Thiền sư, Giác Nghĩa. Sau vườn tháp khoảng 100m là địa điểm Thạch Bàn, đây là một khối đá lớn nằm độc lập trong quá trình tạo sơn khu vực này, trên Thạch Bàn có khắc 1 bàn cờ. Tương truyền, các vị tiên thường xuống đây đánh cờ.

 

  1. Đền thờ thần núi Tam Đảo: Từ chùa, tiếp tục đi trên con đường quanh co lượn theo sườn núi đưa khách tham quan tới thăm đền thờ thần núi Tam Đảo. Đền có quy mô nhỏ, được kết cấu theo kiểu một gian hai chái, nền cao gần như vuông, hai tầng tám mái. Truyền thuyết kể rằng, thần núi Tam Đảo đã âm phù cho cuộc cầu đảo dưới thời Trần Nhân Tông (1279 - 1293) nên được vua phong là “Thanh Sơn Đại Vương”. Đến thời Lê Sơ, đời vua Nhân Tông, niên hiệu Thái Hoà thứ 8 (1450), vua sai đại thần Lê Khắc Phục lên tế thần, ông có để lại tấm bia Ma nhai (khắc vào vách núi) ghi lại sự kiện này.
  2. Bia đá chữ: Khu vực này nằm cách đền thờ thần núi Tam Đảo khoảng gần 700m theo lối mòn, chính là tấm bia Ma Nhai được nhắc đến ở phần trên. Đây là một phiến đá màu ngà có chiều dài khoảng 5m, cao khoảng 3m, khắc bài văn bia bằng chữ Hán ở giữa. Bài văn bia có tổng cộng 121 chữ, khắc theo hàng dọc, gồm 11 dòng, dòng nhiều nhất gồm 16 chữ, dòng ít nhất gồm 3 chữ. Chữ viết theo thể khải thư, khắc sâu, dễ đọc (phía cuối bia khắc 3 chữ chữ lớn “Bát Nhã tuyền” (suối Bát Nhã). Phiến đá nằm nghiêng bên bờ suối, tạo ra hình vòm, tựa như hàm ếch, khiến cho phần chữ của bia khắc ở giữa hàm ếch trải qua bao biến cố thăng trầm, thiên nhiên khắc nghiệt vẫn không bị bào mòn.

Như vậy, với những công trình kiến trúc có giá trị lịch sử, kết hợp với thiên nhiên kỳ thú và lễ hội dân gian được tổ chức vào ngày 15/2 âm lịch hàng năm đã cho chúng ta thấy: Tây Thiên không chỉ là một vùng sinh thái thắng cảnh thiên nhiên trời phú, mà nơi đây còn gắn với những bước đi đầu tiên của người Việt trên con đường tiến xuống khai thác vùng châu thổ, là một điểm sáng mang tính khởi đầu của sự dung hội giữa Phật giáo có yếu tố nguyên sơ gắn liền với đời sống tâm linh, tín ngưỡng dân gian tại Việt Nam thông qua vị anh hùng văn hoá. Tín ngưỡng thờ Quốc Mẫu Tây Thiên đã được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đưa vào Danh mục di sản văn hóa phi vật thể quốc gia năm 2018.